Khi bị phạt nặng, học sinh sẽ biết vâng lời hơn, biết học được những điều hay lẽ phải và không tiếp tục phạm lỗi nữa. Một số người còn cho rằng, trước đây, cha mẹ, ông bà và thầy cô cũng đã xử sự như thế với bản thân nên họ mới được nên người. Giờ đây, họ áp dụng các hình thức này với học sinh của minh để chúng tiến bộ thì không có gì sai. Trên thực tế, trước đây, một số thầy cô cũng dùng đòn roi nhưng chỉ đánh nhẹ nhàng. Sau dó, quan trọng là những lời động viên, tâm sự với học sinh về những điều đúng, sai. Nhờ đó mà học sinh ai nấy đều nhớ đến thầy cô, nhớ về những đòn roi và những lời động viên ân cần mà thầy cô đã chỉ bảo. Biết bao thế hệ học trò đỗ đạt cao rồi di học xa, đi làm xa nhưng vẫn luôn hướng về những thầy cô giáo cũ với tấm lòng biết ơn, tôn kính.
Cùng với thời gian, ngày nay việc giáo dục học sinh đã có nhiều thay đổi. Đối tượng giáo dục của giáo viên là những lớp học sinh mới, nhanh nhạy, năng động nhưng cũng ngỗ nghịch và bướng bỉnh hơn. Người thầy không còn nắm giữ vị trí độc tôn, mối quan hệ thầy – trò cũng dần thay đổi theo hướng dân chủ hơn. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng hình thức roi vọt để giáo dục học sinh xem ra không còn phù hợp, thậm chí trong một số trường hợp còn phản tác dụng, gây ra những hậu quả đáng tiếc. Những đòn roi nặng nề không chỉ gây ảnh hưởng tới sức khỏe, thân thể mà còn có thể làm tổn thương về mặt tinh thần. Theo các chuyên gia tâm lý, roi vọt là một hình phạt không nên lạm dụng. Việc thường xuyên bị đánh đòn rất dễ khiến trẻ hoặc lớn lên trong sợ hãi, nhút nhát hoặc trở nên chai lý cả về thể xác lẫn tinh thần. Điều đáng quan ngại là, khi bị cha mẹ, thầy cô thướng xuyên đánh phạt, đứa trẻ có thể phát sinh tâm lý thích sử dụng bạo lực với người khác. Điều này dẫn dến tình trạng nhiều thanh thiếu niên dùng bạo lực để tấn công những người họ ghét, họ cho là “hư” và cần được “dạy”.
Không thể phủ nhận, nghề giáo hiện nay đang phải đối mặt với không ít áp lực. Từ những áp lực về chuyện cơm áo, mưu sinh đến những áp lực về thành tích, hồ sơ, sổ sách… Tuy nhiên, không phải vì thế mà giáo viên tìm cách giải tỏa áp lực lên học sinh qua những hình phạt bằng roi vọt. Thay vì lạm dụng hình phạt, người giáo viên cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn những hành vi sai phạm của học sinh. Khi buộc phải đưa ra những hình phạt đối với học snh, giáo viên phải đảm bảo hình phạt hoàn toàn công bằng, hợp lý, tránh yếu tố bạo lực, mang tính chất giáo dục và hướng thiện. Đặc biệt, nên áp dụng việc kỷ luật không nước mắt, nghĩa là có thể kỷ luật theo các mức độ khác nhau khi học sinh vi phạm nhưng không sử dụng những hình thức xử phạt bằng roi vọt mà chủ yếu là bằng tấm lòng yêu thương, sự cảm hóa xuất phát từ cái tâm của mỗi người thầy. Để làm được điều này, trước hết người giáo viên phải thường xuyên trau dồi bản thân, đảm bảo tính chuẩn mực, mô phạm cần có. Một giáo viên thường xuyên đến lớp muộn thì không thể trách phạt học sinh lỗi vi phạm này. Cũng vậy, một giáo viên có tác phong không chuẩn mực thì học sinh sẽ không tôn trọng, đến khi những giáo viên này sử dụng các hình phạt đối với học sinh thì các em rất dễ phản ứng lại. Không phải ngẫu nhiên, những vụ bạo hành đối với học sinh thường rơi vào những giáo viên trẻ. Trong các nhà trường đào tạo sinh sư phạm hiện nay, việc hình thành kỹ năng ứng xử sư phạm cho sinh viên đang có phần bị hạn chế. Chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử sư phạm lại phải chịu áp lực không nhỏ từ nhiều phía, người giáo viên rất dễ có những hành động nóng giận, bột phát, nhất thời. Do đó, khả năng tiết chế, kiểm soát cảm xúc là hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên. Việc giáo dục một lớp học sinh mới, có xu hướng bộc lộ cái “tôi” ngày càng mạnh hơn không phải là điều dễ dàng nhưng nếu giáo viên thường xuyên quan tâm, gần gũi, hiểu được tâm sinh lý của từng đối tượng học sinh, biết phối hợp với phụ huynh để cùng uốn nắn thì những khó khăn có thể sẽ được tháo gỡ. Thời nào cũng vậy, chính tình yêu thương, sự sẻ chia chân thành và sự công bằng của thầy cô sẽ cảm hóa và điều chỉnh được nhận thức của học sinh, nhất là với những học sinh cá biệt.
Bài và ảnh: Bùi Minh Tuấn